1. TÌNH YÊU CỦA BÀ Bài thơ đầu tiên bà chép cho Joe là "Lavi en Rose", bài thơ cuối cùng, bài thơ chưa bao giờ được gửi đến ...
1. TÌNH YÊU CỦA BÀ
Bài thơ đầu tiên bà chép cho Joe là "Lavi en Rose", bài thơ cuối cùng, bài thơ chưa bao giờ được gửi đến Joe là "Auld lang Syne".
Tôi thường Thấy bà ngồi lặng lẽ bên góc giường với cuốn sổ bọc da màu nâu sờn đầy những bức ảnh cũ và dòng ghi chú. Bà thậm chí có thể ngồi như vậy cả buổi, cho tới khi ánh chiều rót một màu vàng vọt phủ đầy bầu trời, mới yếu ớt cựa mình nhìn ra xung quanh. Có khi thời tiết mùa Hè trở nên dễ chịu, thường là sau một cơn mưa rào, không khí được làm sạch và dịu mát, bà sẽ gọi tôi lại bên để kể chuyện, trong khi những ngón tay tì miết liên tục trên trang giấy. Tôi thích thú vô cùng khoảng thời gian ấy, thậm chí đã có khi treo đầy búp bê Nhật bên hiên để cầu cho trời mưa mãi không thôi.
Trong những câu chuyên, bà kể bà chuyển đến Nancy, thành phố nằm ở phía Tây Bắc nước Pháp khi Thế chiến thứ hai đã gần kết thúc, nhưng đó cũng đồng thời là những tháng ngày đau khổ nhất. Những người sống giữa cuộc chiến lúc ấy chẳng hề biết trang sử đẫm máu sắp khép lại, vậy nên họ vẫn khóc, vẫn cầu nguyện, vẫn đổ máu từng phút từng giây trong khi đợi chờ ánh sáng của bình minh mới. Bà đã gắn bó với Nancy hơn tất thảy nơi nào bà từng đặt chân tới trong suốt hành trình dài của cuộc đời, và bà yêu thương một người lính Nga tên Joe hơn tất cả những con người trên quả đất này, "Cháu là một ngoại lệ, ma chérie*". Sau cùng, bà sẽ kết thúc câu chuyện bàng một cái hôn lên má và giục tôi hãy tiếp tục làm nốt phần việc còn đang dang dở.
Bà đi vào một ngày lạnh nhất của tháng Hai, mặc dù mùa Xuân vừa đến, nhưng vì mưa bụi giăng khắp lối nên bầu trời cứ thế mà xám xịt nặng nề. Trước đó một tuần, bà bỗng khỏe khoắn lạ thường, bà rời khỏi giường, gọi tôi đến vén tóc cho bà, kẹp lên búi tóc chiếc cài hoa hồng mà bà cất kĩ. Rồi bà ngồi đó, bên góc giường có ô cửa sổ nhìn ra khoảng đất trồng hoa thiên lí rất lâu.
"Trái tim tôi đặt lại Nancy, tôi sẽ ra đi vào một sớm lạnh như ở Nancy."Tôi chưa bao giờ thực sự học tiếng Pháp, nhưng để hiểu những dòng chữ bà viết ở cuối cuốn sổ thì tôi có thể.
Tôi không khóc sau khi bà đi, bởi bà nói với tôi rằng bà thanh thản, đừng đau buồn vì một người rời khỏi cuộc sống này khi mà họ bằng lòng với điều đó. Bà đã hết lòng với cuộc sống, không vướng bận, không kéo dài, nó là vừa đủ để bà trao đi yêu thương và nhận được yêu thương.
Hai năm sau, tôi lên đường tới Hokkaido, Nhật Bản, du học. Suốt hai năm sau nữa, tâm trí tôi không ngừng bị thôi thúc về Nancy, thành phố dường như ám ảnh bà tôi suốt quãng đời người. Dẫu biết rằng Hokkaido từng chịu ảnh hưởng bởi cuộc khai hỏa của người phương Tây, nhưng tôi đã không nghĩ nơi này lợi mang hơi thở của châu Âu đậm nét đến vậy, tận cho tới khi đặt chân đến đây. Nếu không nhờ những biển báo hay bảng hiệu bằng tiếng Nhật, những ngôi miếu và đền thờ Thần xã có mái xây bằng gạch đỏ vẫn thường xuất hiện đâu đó, tôi đã có lần đi trên đường và nghĩ rằng mình đang lạc ở phương trời nước Pháp, nước Ý xa xôi. Khi mùa Đông khắc nghiệt ở Hokkaido đến, tuyết rơi từ ngày này qua ngày khác và nhiệt độ có lúc xuống đến âm hai mươi độ c, tôi thường tự hỏi Nancy có lạnh như ở đây không. Hay những buổi chiều dạo quanh con đường sau kí túc rồi men theo các kênh đào, nhìn ngắm khối kiến trúc đồ sộ cùng những chạm khắc cầu kì mà người phương Tây đem đến cho thành phố, tôi tò mò vô cùng dáng vẻ của Nancy, cổ kính hay hiện đại, địa điểm trong những bức ảnh của bà vẫn nguyên vẹn hay chỉ còn là dấu tích. Ý nghĩ phải đến Nancy thôi thúc tôi mỗi lúc một quyết liệt, cho đến ngày tôi chắc rằng mình nhất định phải đến Nancy vào kỳ nghỉ tới.
Nhưng muốn đến Nancy thì tôi cần một bạn đồng hành biết tiếng Pháp. Bởi suốt những năm tháng ở cùng bà, người đã từng dành gần hết tuổi trẻ ở Pháp, thì tôi vẫn không nói được một câu tiếng Pháp hoàn chỉnh nào. Bao biện cho sự vô lí đó, tôi giải thích rằng mình không có hứng thú với mọi thứ thuộc về châu Âu, thay vào đó tôi thích văn hóa truyền thống thuần túy của châu Á. Cũng vì thế sau này, chuyên ngành tôi chọn khi vào Đại học là về phương Đông.
Navii người Pháp, chính gốc. Navii học cùng lớp tiếng Nhật ở Hokkaido với tôi hai năm trước, nhưng giờ thì anh đang "lang thang" ở Indonesia trong hành trình khám phá Đông Nam Á. Khi tôi liên lạc được với Navii, anh ấy đang trên đảo Belitong, rất tình cờ vì đi nhầm, rồi cứ thế ở lại đó đã hơn một tuần. Navii nói trước đây anh từng đọc về Belitong trong cuốn "Chiến binh cầu vồng", hiện giờ được trực tiếp "diện kiến" nó chính là nhờ chữ duyên, không phải người phương Đông thường quan niệm như vậy sao? Cho đến khi cả hòn đảo này nằm gọn trong bàn tay thì anh sẽ rời đi. Tôi hỏi Navii:
"Anh có biết Nancy không?"
"Ý em là ai đó tên là Nancy, hay thủ phủ Nancy ở Pháp?"
"Cái thứ hai, thủ phủ Nancy."
"Không rõ lắm, anh đến đó lần duy nhất hồi năm ba trung học. Oa, cũng tám, chín năm rồi đấy, em tin không?"
"Anh có thể cùng em tới Nancy vào kì nghỉ Xuân không? Em không biết tiếng Pháp, cũng không hiểu về châu Âu. Bù lại, lúc nào đó anh cần, em sẵn sàng là hướng dẫn viên miễn phí của anh ở châu Á." - Tôi vội vàng cướp lời Navii, kéo anh ấy trở lại trước khi bị cuốn vào dòng suy tưởng dữ dội chỉ chờ có dịp là kéo về.
Navii cười ha hả, nói tôi biết trao đổi, nếu làm thương nghiệp sẽ là đối tác đáng bắt tay.
"Có lẽ anh sẽ không kịp rời Belitong vào kì nghỉ mùa Xuân tới, nhưng anh sẽ cố giúp em bàng cách nào đó, Daisy thân mến ợ. Hãy cứ chuẩn bị mọi thứ cho chuyến đi, em còn cách kì nghỉ Xuân sáu tuần."
Navii (lại) mất liên lạc vài ngày sau đó, tôi hoang mang không biết mình có đang hy vọng quá nhiều. Navii quá ngẫu hứng, quá tự do, và việc Navii thường xuyên quên hẹn, cũng như không có thời gian thực hiện những lời đề nghị không phải là điều khó xảy ra. Nhưng sau đó, tự cảm thấy việc bản thân có suy nghĩ xấu xí về Navii là một điều tội lỗi, ít nhất thì chúng tôi đã làm bạn hơn hai năm, tôi bắt tay vào việc sắp xếp đồ đạc và kế hoạch.
Tháng Ba là bắt đầu kì nghỉ Xuân.
Navii đã giữ lời, anh gọi cho tôi vào tuần đầu tiên của tháng Ba:
"Anh tìm được cho em một hướng dẫn viên không thể nào tốt hơn. Cậu ấy biết mọi thứ ở Nancy, em hoàn toàn có thể tin tưởng."
Tôi thốt ra lời cảm ơn tới Navii một lần và lòng thầm cảm ơn anh thêm một vạn lần nữa.
2. CẶP GỠ NANCY
"Chào Daisy, anh là Ruth, tên Ruth có nghĩa là "người đồng hành". Chào mừng em đến nước Pháp!"
Tôi lúng túng một chút khi gặp Ruth, ấn tượng về con trai Pháp của tôi mang tên "Navii" - cao vừa phải, hơi đậm người, tóc màu hạt dẻ và mắt nâu, nói tiếng Anh giọng chuẩn. Ruth rất cao, tôi đứng cạnh anh mà có cảm giác ngước lên sẽ bị Mặt Trời thiêu cháy mặt, anh nói tiếng Anh pha giọng Pháp, và để râu đen, trùng với màu tóc. Mọi thứ Ruth khoác lên đều chỉnh chu, "sắc nét", tôi không khỏi cảm thán trong lòng: "Người Pháp!". Rồi tôi nghĩ về phong cách trái ngược của Navii, có lẽ đã được đồng hóa từ nhiều vùng đất mà anh ghé qua, cộng hưởng cùng tính cách của anh – thoải mái và đầy màu sắc.
Navii thật sự không nói quá, Ruth ngoài việc nắm rõ mọi thứ về Nancy, vì anh đang sống và làm việc ở thành phố này, thì như mọi lời đồn về đàn ông Pháp, anh tốt bụng và luôn nói lời tử tế. Tôi đã thầm cám ơn Navii thêm một vạn lần nữa, thậm chí khi anh liên lạc để chắc rằng tôi đã gặp Ruth và mọi thứ đều ổn, tôi phấn khích đến độ cười liên tục và nói: "God bless you!"
"Daisy thân mến, anh biết rằng Chúa luôn ở bên anh vì ngài đã trao cho anh một người bạn như em, để người bạn đó lại liên tục cầu ngài ban phước đến anh. Chúc em chuyến đi vui vẻ!"
Khi chúng tôi cùng đứng bên đài phun nước trong khu Place d'Alliance, tôi hỏi Ruth rằng tôi có thể ném đồng xu của mình vào trong bồn không, anh ấy nheo mày nhìn tôi trong giây lát, có lẽ dò xét thấy tôi không có vẻ gì là nói đùa, anh bật cười:
"Thật kì lạ, anh không chắc điều ước khi em thả đồng xu xuống đó sẽ thành hiện thực, nhưng anh chắc trái tim em sẽ bị giam lại ở nơi này mất thôi.”
Tôi hơi giật mình, nhớ lại dòng chữ cuối cuốn sổ của bà: "Trái tim tôi đặt lại Nancy, tôi sẽ ra đi vào một sớm lạnh như ở Nancy."
"Tại sao vậy ạ?"
"Em không nhìn thấy thần Tình yêu bên trên kia sao? Em chưa kịp ước thì đã bị thần bắn mũi tên xuyên trái tim rồi."
Sau câu nói đùa của Ruth, tôi gật gù thu lại đồng tiền vào túi áo khoác, và khi ngước lên nhìn thần Tình yêu đứng trên đỉnh đài phun nước, mà thực chất là một cậu bé mang đôi cánh thiên thần đang giương cung tên, tôi thấy gò má mình đang bị Mặt Trời chiếu rát.
"Tại sao em lại đến Nancy, đây không phải điểm mà khách du lịch ưu tiên. Ý anh là, họ thường chọn Paris, Nice, hay Lyon khi lần đầu đến Pháp."
Tôi mở cuốn sổ của bà, chỉ vào bức ảnh bà đứng trước nhà thờ chính tòa Nancy cho Ruth xem:
"Đây là bà em, nhưng năm bà hai mươi tuổi đã từng sống ở đây. Em luôn muốn đến Nancy, để nhìn tận mắt nơi bà từng sống, con đường bà từng đi qua, đén cả băng ghế trong nhà thờ mà bà từng ngồi cầu nguyện hàng giờ. Em đã nghe bà nhiều lần nhắc đến nơi này, cho đến ngày bà rời đi, cũng chỉ nghĩ về nó."
"Điều gì đã khiến bà em yêu Nancy đến thế? Bà khi trẻ rất đẹp."
"Bà có một mối tình ở Pháp. Em nghe bà kể họ yêu nhau vào thời chiến, ông ấy là người Dagestan tới Pháp học tập, sau khi ông quay về Liên Xô tham gia quân đội thì họ chia tay và mất liên lạc mãi mãi."
Ruth đan hai tay đặt dưới cằm, yên lặng và chăm chú nhìn tôi, tôi nhìn anh ấy, bất giác tạo ra một khoảng lặng ngập ngừng giữa hai người.
"Chuyện về những thiên tình trong chiến tranh không phải lần đầu tiên anh được nghe, nhưng lần nào cũng khiến anh phải yên lặng."
"Vậy sau đó bao lâu thì bà em kết hôn? Xin lỗi, ý anh là với ông của em."
"Không, bà em không kết hôn, còn em được bà nhận nuôi."
Tôi có thể nhìn thấy trong đôi mắt nâu như màu cà phê của Ruth thoáng bất ngờ và bối rối, nhưng tôi cười vang, lập tức cố gắng xóa tan sự ngại ngùng đó.
Trong một tuần tôi ở Nancy, Ruth đã bỏ hầu hết thời gian có thể của anh ấy cho tôi, tôi thực sự biết ơn điều đó. Tôi không giỏi việc nhớ đường, càng không giỏi việc giao tiếp, thế nên những lúc không có Ruth bên cạnh, tôi chỉ loanh quanh ở khách sạn và công viên gần đó, nhưng tới ngày cuối cùng tôi ở lại Nancy, tôi cũng đã đi được gần hết những địa điểm mà bà viết trong cuốn sổ. Ruth hỏi tôi còn nơi nào đặc biệt muốn đến nữa không, tôi hỏi liệu anh có thể đưa tôi trở lại nhà thờ lớn.
Đó là buổi trưa ngày thứ Bảy, buổi lễ cầu vừa xong và nhà thờ mở cửa tự do cho các tín đồ và du khách. Mái vòm của nhà thờ rất cao, khi ngước nhìn lên những chạm khắc trên đó, tôi lại thấy gò má mình nóng bừng dù chẳng có Mặt Trời nào chiếu rát cả. Tôi đỗ lỗi cho những chùm sáng rực rỡ, lung linh chiếu rọi lên vách tường, xuống sàn nhà, chiếu lên cả mặt tôi, nhưng tôi biết nguyên nhân đích thực là từ Ruth, từ đôi mắt màu nâu như tách café và đôi môi thi thoảng lại mím lại vừa như suy nghĩ, vừa như mỉm cười của anh. Cũng hôm đó, tôi đặt lại phong thư có chép tay bài thơ "Auld lang Syne" của bà ở lại nhà thờ lớn, đem tình yêu đặt lại đúng nơi mà nó hướng về suốt hàng chục năm.
"Có nên quên đi những người thân quen thuở trước, và không bao giờ nhớ đến họ nữa?
Có nên quên đi những người thân quen thuở trước, và những tháng ngày tươi đẹp đó xa?
Cho những ngày tươi đẹp xa, người thân yêu.
…
Hai ta đã cùng trèo lên dốc, để hái những đóa hoa đồng nội.
Chúng ta đã cùng nhau đi thơ thẩn đến khi chân mỏi rã rời, từ những tháng ngày tươi đẹp cũ.
Hai ta đã cùng lội nước trên dòng suối, từ sáng sớm cho đến tận giờ cơm."
3. NHỮNG ĐIỀU CÒN DANG DỞ
Kết thúc kì nghỉ Xuân một tháng, tôi trở lại trường học, Nancy với tôi như một giấc mơ phải khép lại. Mười ngày ở Nancy thực sự ngắn ngủi, và thời gian đó đẹp đến độ mơ hồ, tôi vẫn tưởng mình là kẻ say ngủ vừa tỉnh dậy giữa giấc chiêm bao. Nancy đã từng sống trong bà lâu đến vậy, và giờ thì nó sẽ tiếp tục với tôi chăng? Ngày hôm đó, tuy tôi không ném đồng xu của mình xuống đài phun nước, thì trái tim tôi cũng đã bị Nancy lấy cắp rồi.
Tôi đã không ít hơn một lần muốn nắm bàn tay Ruth khi anh ấy đi bên cạnh, không ngừng nhìn trộm khi anh ấy cười, khi anh ấy nói, khi anh phân vân suy nghĩ chọn đồ ăn, khi anh nhẹ nhàng kéo tôi lách ra khỏi một đám đông, và tôi cũng không dưới một lần muốn nhảy lên hôn vào má anh khi chúng tôi chia tay ở sân bay, nhưng tất cả những gì tôi làm chỉ là một cái ôm hờ, cùng một lời cảm ơn vội vã.
Tôi lật mở cuốn sổ của bà, nhớ có lần bà đã nói tôi là một đứa trẻ sống bản năng, hành động của tôi đơn giản, lời nói không nhiều tính toán, bà bảo điều đó tốt, chí ít một ngày khi tôi thực sự muốn điều gì đó, tôi sẽ lao đến và giành lấy nó, không mất quá nhiều đắn đo hay so tính thiệt hơn. Tôi bật cười vì nghĩ bà đã nhìn sai mất rồi, tôi có thể nghĩ gì làm nấy trong nhiều trường hợp, ngoại trừ chuyện tình cảm.
Nếu tôi nói với Ruth ràng tôi thích anh, tôi sợ nhiều thứ sẽ không còn nằm trong tầm kiểm soát của mình nữa. Tôi và anh ở hai văn hóa khác nhau, tôi và anh ở hai nửa địa cầu, quan trọng hơn là tôi không biết anh nghĩ gì về tôi. Tôi ngần ngại nghĩ đến kết cục của những câu chuyên tình yêu có quá nhiều khác biệt thường không thể trọn vẹn, như Joe và bà tôi.
Navii không liên lạc với tôi suốt ba tháng vì nói rằng phí dịch vụ ở Singapore rất đắt. Rồi một ngày nọ khi tên anh hiện lên trong hòm thư, tôi đoán là anh đã di chuyển tới nước nào đó có phí dịch vụ rẻ hơn.
"Daisy thân mến!
Ruth nói rằng cậu ấy sẽ sớm đến Nhật Bản trong vài ngày tới
Cậu ấy nói cậu ấy có một hướng dẫn viên miễn phí ở Hokkaido. Anh thực sự buồn vì bị hai người bạn yêu quý cho ra rìa, mặc dù phí dịch vụ ở Singapore rất đắt nhưng anh vẫn phải nhắn tin để nói điều đó."
Hòm thư lại kêu "tinh" thêm một tiếng nữa, nhưng lần này là thư của Ruth, lá thư gửi đến tôi vào một ngày tháng Sáu.
*Ma chérie: Cách gọi thân mật với người nữ trong tiếng Pháp.
THANH HẢI
TRÀ SỮA CHO TÂM HỒN SỐ 143
COMMENTS